Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

LỒN VÀ BUỒI TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM 2

LỒN VÀ BUỒI TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Đỗ Anh Vũ (Viện Ngôn ngữ học)
2.1. Về khái niệm sinh thực khí : Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên), sinh thực khí được định nghĩa là khí quan phồn thực của sinh vật (thường nói về của người). Một số dân tộc có tín ngưỡng thờ sinh thực khí (tr 1102). 
Theo chúng tôi, sinh thực khí, thoạt kỳ thủy, có thể coi là một khái niệm thuộc chuyên ngành văn hóa dân gian. Theo đó, sinh nghĩa là đẻ, thực là này nở, khí là công cụ; sinh thực khí nghĩa là công cụ để tạo ra việc sinh đẻ nảy nở giống nòi và sự sống nói chung. Mà nói đến sinh thực khí thì đương nhiên người ta nghĩ nhiều đến chủ sở hữu là loài người bởi con người là trung tâm của thế giới, là sinh vật quan trọng nhất trong muôn loài. 


Những từ ngữ để chỉ về hai bộ phận sinh thực khí của nam và nữ thì có nhiều, song điều đặc biệt hơn, nó là yếu tố từ vựng chỉ về bộ phận cơ thể đặc biệt quan trọng của con người (đối với nữ giới là bộ phận bất khả ly), một bộ phận có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong việc duy trì nòi giống, sự sinh tồn cho cả một xã hội. Bởi ý nghĩa tối quan trọng như vậy nên trong những tín ngưỡng dân gian, ta thấy rất phổ biến ở nhiều cộng đồng việc thờ cơ quan sinh thực khí và thờ hành vi giao phối. Có thể thấy điều này trong tín ngưỡng văn hóa của người Ấn Độ cũng như cư dân nhiều vùng trong khu vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều mặt trống đồng có hình nam nữ đang giao phối (chẳng hạn trống động Đào Thịnh), một số hình ảnh động vật giao phối cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình). Sinh thực khí cũng được tìm thấy qua việc khăc trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên. Sinh thực khí cũng được đưa vào trong nhiều lễ hội, chẳng hạn lễ hội rước sinh thực khí ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) vào ngày mùng 6 tháng giêng, hoặc lễ hội Linh Tinh Tình Phộc ở Lâm Thao (Phú Thọ). Nói như vậy để thấy sinh thực khí có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt và văn hóa của người Việt, phản ánh mong ước chung của các cư dân nông nghiệp về sự sinh sôi nảy nở phát triển của muôn loài. 

2.2. Về sinh thực khí của đàn ông 
Qua bảng ngữ liệu đã dẫn ra ở trên, chúng tôi nhận thấy có tất cả 9 định danh được sử dụng để diễn tả về bộ phận sinh thực khí của đàn ông, đó là: bòi, buồi, cặc, cò, cu, chim, dái, đồ, nõ. Tần số xuất hiện của các đơn vị trên trong các đơn vị thành ngữ tục ngữ ca dao cụ thể như sau:
.
Sinh thực khí nam
Tần số xuất hiện
Bòi
2
Buồi
26
Cặc
11
1
Cu
4
Chim
4
Dái
14
Đồ
2
2

Như vậy, có thể thấy, trong lời ăn tiếng nói dân gian, buồi là định danh xuất hiện với tần số cao nhất( 26 lần), trong đó có thể xem “bòi” là một biến âm của buồi với 2 lần xuất hiện, cộng cả bòi và buồi ta có tổng số tần suất 28 lần; tiếp đến là dái (14 lần) và cặc (11 lần). Bên cạnh đa số các trường hợp những định danh trên nói về sinh thực khí nam, ta còn bắt gặp việc nói về sinh thực khí của các loài vật giống đực qua các câu: Chớ mó dái ngựa, Dài như cặc ngựa và Gà lấm lưng, chó sưng đồ. Một trường hợp đặc biệt khác, tư duy người Việt cho rằng ông trời cũng có cái đó, vì vậy mà có câu “xa như buồi giời”. Trong đời sống, thành ngữ này thường được sử dụng trong những ngữ cảnh như: “Ấy, cái thằng thế mà tài, việc xa như buồi giời mà nó cũng biết”. Có thể coi đây là một lối tư duy trực quan sinh động, rất hài hước, hóm hỉnh và ngộ nghĩnh của người Việt, thấp thoáng bóng dáng của cái nhìn vạn vật nhất thể, thể hiện sự hòa đồng ở mức độ cao của con người với thế giới tự nhiên cũng như xã hội. Cách nói “buồi giời” còn khiến chúng ta có thể nhớ về câu thơ của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương từng được Xuân Diệu khen hết lời, ở đó, ông trời được nữ sĩ coi như một đứa trẻ qua động từ Đang cơn nắng cực chửa mưa tè(Tát nước). Các định danh về sinh thực khí nam còn cho ta thấy những đặc điểm nổi trội mang tính vùng miền qua các danh ngữ như cặc Hành Thiện hay cặc Hải Hưng. Bên cạnh đó, những đặc điểm riêng khác manh tính bổ nghĩa cho danh từ trung tâm đứng trước đã hình thành nên những đơn vị định danh không kém phần độc đáo như: buồi xe điếu (buồi nhỏ), buồi tông cán(buồi to), cặc dài (trai thích chè đặc gái thích cặc dài), cặc lõ (việc thì bỏ cặc lõ thì theo).
Sinh thực khí nam còn được sử dụng với tư cách ẩn dụ trong các biểu trưng ngữ nghĩa. Theo thống kê của chúng tôi, có khoảng một chục các biểu trưng ngữ nghĩa được thiết lập qua hình ảnh sinh thực khí nam, chủ yếu phê phán các thói hư tật xấu của xã hội. Có thể gọi đây là những biểu trưng tiêu cực, âm tính. Chẳng hạn phê phán cách ứng xử vô lễ, hỗn hào có những câu như: Cậy gần hàng nồi đút buồi vào niêu, Cậy gần hàng nồi đút buồi vào lọ, Dạ vâng trước mặt trật cặc sau lưng. Phê phán tính ki bo keo kiệt có câu: Chưa giàu đã lấy buồi làm then cửa; phê phán thói khôn lỏi, làm ăn tắc trách có câu: Chưa nặn Bụt đã nặn buồi; phê phán thói vô ơn bất nghĩa có câu: Qua sông đấm bòi vào sóng; phê phán những người yếu đuối, hèn kém, không thể hiện được sức mạnh và khả năng của một đấng nam nhi có câu: Chồng người vượt lạch rẽ ngòi/Chồng em xó bếp đầu bòi chấm gio. Bên cạnh ý nghĩa phê phán còn có ý nghĩa chê bai trong một loạt những câu như: Tự tay bóp dái (chê những kẻ tự gây tai họa cho mình), Buồi lắm lông mà đòi đóng khố lượt (chê những kẻ đòi hỏi cái họ không xứng đáng), Đầu buồi cuốn giẻ(chê những kẻ vô tích sự, không có năng lực), Già dái non hột (chê những kẻ nội dung không tương xứng với hình thức). Hàm ý coi thường được bộc lộ qua những câu như: Dân ngu cu đen, ăn cơm không biết trở đầu đũa. Những ý nghĩa âm tính khác liên quan đến sinh thực khí nam được bộc lộ qua những câu như: Chồng ướt dái vợ sái răng hàm (chỉ sự lao động cực nhọc, khổ sở, vất vả của người chồng), Đánh đĩ gặp năm toi buồi (chỉ công việc không gặp may mắn, không thuận lợi), Chơi với làng Bái dái có ngày mất, Nghĩ lại thì dái chẳng còn (chỉ sự thiệt hại mà người ta phải gánh chịu). Chỉ có duy nhất một trường hợp sinh thực khí nam gắn với ý nghĩa ẩn dụ mang tính tích cực, dương tính, có sắc thái khen ngợi qua câu: To đầu mà dại nhỏ dái mà khôn. 
Vẫn qua sinh thực khí nam, những lời khuyên về ứng xử từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội đã được cha ông ta gửi gắm như những đúc kết của bao đời, chẳng hạn: Con mày con nuôi không bằng con buồi sinh ra (quan niệm con đẻ tốt hơn con nuôi), Giập dái rái cầu (lời khuyên phải thận trọng, cẩn thận đối với những sai lầm từng mắc phải), Giữ dao phải giữ lấy chuôi/Giữ chồng phải giữ cái buồi của anh; Mù u ba lá mù u/Vợ chồng cãi lộn con cu giải hòa (lời khuyên về ứng xử vợ chồng). Kinh nghiệm và kiến thức dân gian còn được thể hiện qua những câu như: Sướng con cu mù con mắt (bị đau mắt thì phải kiêng quan hệ nam nữ), Con trai đen dái, con gái đen đầu (dễ nuôi), Con trai sưng dái, con gái sa đì (bệnh thường gặp)
Trong một nhóm khác, sinh thực khí nam hiện lên như những miêu tả của đời sống sinh hoạt thường ngày với nhiều sắc màu. Có khi là chê bai như: Uống rượu ngồi dai dái mài xuống đất. Có khi miêu tả sự tương phản như: Cơm no cò đói. Có khi miêu tả sự thiếu thốn vất vả như: Mô phạm tiên sinh quần dính đít/Bù xu tiểu tử khố cong buồi. Có khi chỉ như một bức tranh biếm họa, gây chút hài hước nhẹ nhàng: Sáng trăng vằng vặc/Vác cặc đi chơi/Gặp đàn vịt trời/Giương cung anh bắn/Gặp cô yếm thắm/Đội gạo lên chùa/Thò tay bóp vú...Quan niệm ấu trĩ trọng nam khinh nữ của một thời còn để lại dấu vết qua câu: Một trăm con gái không bằng hòn dái con trai... 
2.3. Về sinh thực khí của phụ nữ 
Nếu như ở nam giới có 9 định danh diễn tả về sinh thực khí thì đối với phụ nữ, các đơn vị định danh khác nhau lên tới con số 14, đó là: âm hộ, bướm, đác, đách, đếch, đì, đoi, đồ, hĩm, ghe, lồn, nường, thè le, hạt chay. Tần số xuất hiện của những đơn vị định danh sinh thực khí nữ trong các câu thành ngữ tục ngữ ca dao cụ thể như sau:
.
Sinh thực khí nữ
Tần số xuất hiện
Âm hộ
3
Bướm
2
Đác
1
Đách
2
Đếch
4
Đì
1
Đoi
1
Đồ
4
Hĩm
1
Ghe
3
Lồn
124
Nường
2
Thè le
1
Hạt chay
1
  .
Như vậy, nếu như BUỒI có thể xem là đơn vị định danh mang tính điển mẫu cho sinh thực khí nam bởi tần số xuất hiện nhiều nhất thì đối với sinh thực khí nữ, điển mẫu ắt hẳn phải là định danh LỒN với 124 lần xuất hiện. Các định danh còn lại không chênh lệch nhau nhiều lắm về tần số, tiếp đến là đồ, đếch, ghe, âm hộ, bướm, nường. Bảng đơn vị định danh của sinh thực khí nữ phong phú hơn hẳn bảng đơn vị định danh sinh thực khí nam, vì thế mà có khá nhiều câu chuyện thú vị ở đây. Trong các định danh trên, có một định danh vay mượn từ gốc Hán là âm hộ, xuất hiện trong những câu thành ngữ cũng vay mượn của người Hán: Tế yêu âm hộ đại (tạm dịch: eo nhỏ thì lồn to), Âm hộ vô mao bần chi tử (âm hộ không có lông thì đúng là tướng nghèo hèn). Thế nhưng người Việt chỉ vay mượn từ âm hộ ( sử dụng các câu thành ngữ có từ này va cũng tự tạo ra một câu có từ âm hộ nữa là: Tối như âm hộ) mà không hề vay mượn từ dương vật của người Hán để đưa vào các câu thành ngữ tục ngữ. Các định danh chỉ sinh thực khí nữ như: đách, đếch, đác, đì, đoi, hĩm, ghe nay đã trở thành những từ cổ, ít còn thấy sử dụng trong đời sống đương đại. Chữ ‘”nường” chỉ sinh thực khi nữ luôn đi kèm với chữ “nõ” chỉ sinh thực khí nam, không bao giờ thấy tách rời. Ngày nay, chữ “nõ nường” vẫn được sử dụng nhưng chỉ hạn chế trong môi trường nghiên cứu vễ văn hóa dân gian và lễ hội dân gian. Các định danh đách, đếch, đác theo chúng tôi là có cùng một gốc, chúng vốn là các từ biến âm của nhau. Công bằng mà nói, trong bảng định danh trên, những chữ như đách, đếch, đác, thè le, hột chay không chỉ toàn bộ sinh thực khí của người nữ mà chúng xuất phát điểm vốn mang ý nghĩa chỉ một bộ phận nằm trong cấu tạo sinh thực khí nữ, đó là âm vật của người nữ, còn có tên khác là mồng đốc. Từ chữ “đốc”, chúng ta thấy có các từ gần âm như đách, đếch và đác. Trong y khoa, tên khoa học của bộ phận này theo tiếng La tinh là Clitoris, được miêu tả đầu tiên bởi một nhà khảo cứu cơ thể người Ý năm 1559. Như vậy, người Việt trong nhiều trường hợp đã dùng bộ phận này để làm đại diện, chỉ cho toàn bộ sinh thực khí của người nữ. Trong ngôn ngữ học, có thể coi đây là một phép hoán dụ, dùng cái bộ phận làm đại diện cho cái toàn thể.
Có thể thấy, trong bảng ngữ liệu thành ngữ tục ngữ ca dao dẫn ra ở trên, số lượng những câu nói về sinh thực khí nữ áp đảo hơn hẳn những câu nói về sinh thực khí nam. Có tới 102 câu nói về sinh thực khí nữ, chiếm 61% trên tổng số 160 câu, trong khi chỉ có 42 câu nói về sinh thực khí nam, chiếm tỉ lệ 26%. Còn lại 21 câu vừa đồng thời nói về sinh thực khí của cả nam và nữ, chiếm tỉ lệ 13%. Chúng tôi tổng kết tỷ lệ này qua bảng biểu dưới đây:
.
Ngữ liệu
Đơn vị
Tỷ lệ
Sinh thực khí nữ
102 câu
62%
Sinh thực khí nam
42 câu
25%
Sinh thực khí nam và nữ
21 câu
13%
Tổng số
165 câu
100%
.Trước tiên, ta thấy tính chủng loại ở sinh thực khí nữ vô cùng phong phú, nhiều hơn hẳn sinh thực khí nam. Về sinh thực khí của người, có các loại mang tính đặc trưng vùng miền như: lồn Cổ Am, lồn Hà Bắc, có các loại khác như lồn vợ, lồn cô hàng cá, lồn phò,lồn con đĩ, hĩm bà cô, lồn Từ Hy thái hậu. Nếu như ở sinh thực khí nam, ta bắt gặp một đơn vị định danh mang tính phi hiện thực là “buồi giời” thì giờ đây ở sinh thực khí nữ, ta cũng bắt gặp một đơn vị định danh mang tính phi hiện thực như thế, đó là “lồn ma” trong câu lạnh như lồn ma. Về sinh thực khí của động vật giống cái, ta thấy có đến 6 loại là: lồn mèo (2 lần), lồn trâu, lồn bò, lồn heo, lồn nai, đếch khỉ. Trong 6 loại này có 4 loại của đồng bằng và 2 loại của rừng núi. Nói cách khác, nếu như 4 loại của đồng bằng thể hiện tính hướng nội trong cảm quan người Việt thì 2 loại của rừng núi lại thể hiện tính hướng ngoại trong cảm thức. Sở dĩ phải nói tới điều này vì cách đây hơn 10 năm (2004), trong một bài viết mang tên Khu đĩ và lồn mèo (www.Tienve.org), tác giả Nguyễn Hoàng Văn cho rằng, bộ phận sinh thực khí nam xuất hiện trong ngôn ngữ thể hiện tính hướng ngoại của nam giới Việt và vì thế nam giới cũng được đề cao hơn nữ giới trong đời sống xã hội. Đó là lí do khi đi ra đường ta bắt gặp một loạt các định danh như: cặc dứa (rễ cây dứa), cặc bần (rễ cây bần), cặc khỉ (cốm nặn), cặc vịt (dụng cụ mở rượu) còn phụ nữ thường gắn với gia đình, quanh quẩn trong nhà nên mới có các định danh: lồn mèo (góc chụm hình tam giác nơi hai mái nhà giáp nhau), lồn xa (dụng cụ trong khung cửi), lồn trâu (một kiểu cổ áo bà ba). Thế nhưng nếu quan sát vào hệ thống ngữ liệu thành ngữ tục ngữ ca dao người Việt nói trên thì ta thấy tình hình không hẳn thế. Bộ phận sinh thực khí người nữ vẫn hiện lên trong những định danh mang tính hướng ngoại, thậm chí chúng còn được ca ngợi và xuất hiện nhiều biểu trưng tích cực hơn so với sinh thực khí của người nam. Chẳng hạn trong vế đầu của câu tục ngữ “đẻ con khôn mát lồn rười rượi”, tính ngữ “mát lồn rười rượi” chính là một biểu trưng tích cực về cảm giác hạnh phúc, viên mãn, yên lòng của người mẹ với đứa con mà mình sinh ra. Những biểu hiện tích cực, dương tính qua sinh thực khí nữ còn có thể thấy trong các câu như: May hơn khôn lớn lồn hơn đẹp, Tiền ít mà đòi hít lồn thơm. Lồn có khi còn biểu trưng cho quyền lợi qua các câu như: Anh đánh miếng lồn em đánh miếng ghe, Có cháo đòi chè có ghe đòi lồn... Về sự phong phú của các “chủng loại” trong miêu tả sinh thực khí nữ, còn phải kể đến một loạt các định danh như: lồn lá mít (được coi là đẹp nhất), lồn lá tre (được coi là nhỏ nhất), lồn lá vông (được coi là to nhất, gây cảm giác choáng ngợp), lồn lạ, lồn trần (lồn trần không váy, lồn trần nước sôi), lồn lở sơn, lồn vỡ đóng đai (loại lồn bị coi là bệnh tật, xấu xí), lồn chẳng ghế đá, lồn vá xe hơi (được coi là cũ nát). Những miêu tả khác trong đời sống sinh hoạt cho ta cách diễn đạt: Sồn sồn như lồn gặp lá han, Hong hóng như lồn chực cưới. Một định danh rất đặc biệt nữa không thấy có sự tương ứng trong sinh thực khí nam, đó là thần lồnVấp phải thần lồn xuống dốc không phanh, Ma bắt hồn thần lồn bắt vía và Thần lồn ám ảnh cũng mê mẩn người. Coi lồn như vị thần quả là một cách ví von so sánh độc đáo của người Việt. Cũng có thể nói, người Việt đã phong thần cho lồn bằng tư duy văn hóa độc đáo của mình. Câu hỏi được đặt ra là tại sao có Thần Lồn mà không có sự tương ứng Thần Buồi trong cách nói của người Việt. Chúng tôi cho rằng đây là một dấu vết, ánh xạ của chế độ mẫu hệ, phản ánh sự đề cao nữ quyền trong xã hội Việt thời xưa. Bằng chứng là đến nay vẫn còn lưu dấu lại những câu tục ngữ như: Lệnh ông không bằng cồng bà, Nhất vợ nhìn trời, Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng. Uy quyền của người nữ trong xã hội Việt xưa còn khiến chúng tôi không thể không liên hệ tới việc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của chúng ta có rất nhiều nữ tướng tài ba, lưu danh vào sử sách như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Chân...Đây là điều rất hiếm gặp nếu không muốn nói là chưa từng thấy trong lịch sử các nước phương Tây. Một góc nhìn khác của việc đề cao hình ành người nữ và sinh thực khí nữ còn có thể thấy qua câu: Khổ vì lồn. 
Những kiến thức, kinh nghiệm hoặc thậm chí là những mê tín dân gian xoay quanh sinh thực khí nữ cho ta thấy nhiều biểu hiện văn hóa độc đáo. Trong một chuyến đi điền dã ở vùng núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc), tôi gặp một người phụ nữ trung tuổi tay cầm một cành lá, đang phẩy vào mẹt hàng của chị ta rồi lẩm bẩm: Trai sờ dái, gái sờ lồn. Hỏi ra mới biết câu đó được dùng để xua tan đi sự xui xẻo, mong sẽ có nhiều khách đến mua hàng. Những quan sát về biểu hiện tâm sinh lý của nữ giới được đúc rút qua các câu như: Đẻ con phải biết tính con/Hễ vú gai gạo là lồn chớp đông và Nước đến trôn lồn mới nhảy. Trong quan hệ luyến ái, người Việt lại đưa ra kinh nghiệm:Sờ lồn béo, đéo lồn gầy. Không chỉ đúc rút ra những quan sát và kinh nghiệm đối với sinh thực khí nữ, người Việt còn có cả đúc rút, quan sát và trình bày kinh nghiệm qua sinh thực khí của nhiều loài vật: Cha chết không lo lo trâu méo lồn, Dài như lồn nai xuống dốc, Lẹo thẹo như mèo cháy lồn, Đi biển lâu lồn trâu cũng thích, Đỏ như đếch khỉ... 
Trong quan niệm về một sinh thực khí nữ hấp dẫn, đẹp và chuẩn mực, ngoài những nội dung như kích thước và sự sạch sẽ (lồn thơm), người Việt còn cho rằng chỗ ấy nhất thiết phải có lông: Có phúc thì lồn có lông/Vô phúc thì lại sạch không làu làu, Lồn nào mà chẳng có lông. Nếu chẳng may khi yêu đương mà gặp phải cái lồn không lông thì đúng là một thảm họa, như thể sẽ báo trước điều xui xẻo mà người nam sắp gặp phải: Âm hộ vô mao bần chi tử. So sánh điều này với văn hóa phương Tây, ta sẽ thấy khác nhau một trời một vực. Đa số người phương Tây lại cho rằng chỗ ấy phải không có lông thì mới là đẹp, là sạch sẽ, không bị vướng víu. Trong các bộ phim Porn của Âu Mỹ, ta thấy không chỉ diễn viên nữ mà ngay cả diễn viên nam cũng đều làm sạch hạ bộ, không để lại lông.
Về những ý nghĩa biểu trưng được thể hiện qua các ẩn dụ về sinh thực khí nữ, ta bắt gặp một điểm tương đồng với sinh thực khí nam, đó là sự phê phán hoặc chê bai những thói hư tật xấu của xã hội. Chẳng hạn chê bai sự hời hợt nông cạn, người Việt có câu: Lồn ngoài váy trong; chế giễu hành động ngu ngốc, tự hại mình, người Việt có câu: Bịt lồn lá khoai; phê phán tính tham lam thì có câu: Có cháo đòi chè, có ghe đòi lồn; phê phán tính giận cá chém thớt thì có các câu:Lồn không lành mắng quanh hàng xóm, Ra đường chẳng biết ai nói thế nào/Về nhà lấy thớt lấy dao băm lồn. Biểu trưng sinh thực khí nữ còn đi cả vào những nhận xét, phê bình về cách ứng xử của người đàn ông trong gia đình Việt: Coi lồn vợ hơn cái mả cha, Được cái lồn xỏ bỏ cái lồn chui (ý nói coi vợ hơn mẹ). Trong một số câu khác, sinh thực khí nữ được dùng làm ẩn dụ nói về những điểm yếu của cá nhân: Dù ai trăm khéo nghìn khôn/Đi tè cũng để cái lồn tô hô, Giữ được đằng trôn đằng lồn quạ mổ. Sinh thực khí nữ cũng được dùng để phê phán thẳng thắn tính vũ phu, bạo ngược, phũ phàng trong quan hệ với phụ nữ của nam giới, thể hiện qua câu: Chơi no bỏ tro vào đồ. Người Việt đôi lúc có những cách diễn đạt mang tính ngoa ngôn khiến câu tục ngữ trở nên vô cùng sống động, ý nghĩa phê phán được đan cài cùng một nụ cười tinh quái: Chồng chết còn chửa mãn tang/Lồn đà ngáp ngáp như mang cá mè. 

Còn nữa 

LỒN VÀ BUỒI TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

LỒN VÀ BUỒI TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Đỗ Anh Vũ (Viện Ngôn ngữ học): Tìm hiểu sự hoạt động của các yếu tố chỉ sinh thực khí trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao và câu đố của người Việt

Lời dẫn của Tễu Blog: Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu trẻ Đỗ Anh Vũ là nội dung trình bày trong buổi thuyết trình “Tìm hiểu sự hoạt động của các yếu tố chỉ sinh thực khí trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao và câu đố của người Việt” đã diễn ra vào chiều thứ bảy 05/09//2015, tại Cà phê Thứ Bảy, 3A, Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

"Những từ chỉ sinh thực khí của tiếng Việt xuất hiện khá nhiều trong lời ăn tiếng nói dân gian, điển hình qua vùng ngữ liệu của thành ngữ tục ngữ và ca dao. Từ trước đến nay trong giới Việt ngữ học, chúng được xếp vào bộ phận những từ ngữ mang sắc thái tục, ít được chú ý nghiên cứu và cũng thường bị người ta ngần ngại khi phải đề cập tới.

Bài thuyết trình, đi vào tìm hiểu sự hoạt động của những yếu tố chỉ sinh thực khí trong nguồn ngữ liệu dân gian là thành ngữ, tục ngữ, ca dao và câu đố của người Việt. Qua gần 10 năm khảo sát, diễn giả đã thống kê được con số 158 đơn vị thành ngữ tục ngữ ca dao và 17 đơn vị câu đố có sự xuất hiện của những yếu tố chỉ sinh thực khí từ các cuốn từ điển, các tài liệu văn hoá và tư liệu điền dã cá nhân. Tác giả cũng chỉ ra các hình thức định danh, những cách sử dụng mang tính biểu trưng, ẩn dụ; và đặc sắc hơn cả là những ẩn tầng văn hoá ẩn chứa qua từng con chữ. Qua khối ngữ liệu này, ta không chỉ bắt gặp những tín ngưỡng / mê tín dân gian, kiến thức dân gian mà còn thấy những tương đồng và khác biệt thú vị khi so sánh với đời sống văn hoá và ngôn ngữ của người phương Tây".

Diễn giả Đỗ Anh Vũ, Email: doanhvuvn2000@ yahoo.com

Bút danh: Trầm Ngư, Lĩnh Tung Ma, Tạ Lũng Minh.
Sinh năm 1980. Công tác tại Viện Ngôn ngữ học từ 2002 đến nay.


1. Đặt vấn đề 
Ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào cũng tồn tại những yếu tố tục. Người ta vẫn thường ngại đề cập đến các yếu tố tục nhưng chính những yếu tố đó mang trong nó những đặc trưng hết sức quan trọng, đại diện cho ngôn ngữ của mỗi cộng đồng. Thứ nhất, đa số các từ tục nằm trong khu vực từ vựng cơ bản của mỗi ngôn ngữ, là một trong những cơ sở để phân định sự độc lập của ngôn ngữ này so với ngôn ngữ khác. Thứ hai, các từ tục góp phần quan trọng thể hiện những đặc trưng, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng. Trong vùng ngữ cảm của người Việt, các từ tục nằm ở mức độ cao nhất được coi là các từ chỉ bộ phận sinh thực khí của người nam và người nữ. Bài viết này, vì lẽ đó, sẽ đi vào tìm hiểu sự hoạt động của những yếu tố từ vựng này trong kho ngữ liệu khá phong phú là thành ngữ, tục ngữ, ca dao và câu đố của người Việt. Kho tri thức văn hóa dân gian này vẫn được coi là túi khôn của ông cha, chắc chắn sẽ mang trong nó nhiều đặc điểm và biểu hiện thú vị của tiếng Việt cũng như nền văn hóa của cư dân bản địa. 

2. Nội dung chính 
Việc thống kê trong nhiều tuyển tập thành ngữ tục ngữ và ca dao của người Việt, các tài liệu về văn hóa dân gian và một số tư liệu điền dã khác cho chúng tôi một bảng ngữ liệu gồm 165 câu, được sắp xếp theo trật tự alphabet như sau: 
1. Anh em bất nghĩa chi tồn
Anh đánh miếng lồn em đánh miếng ghe 
2 . Ăn cái (máu) lồn
3. Âm hộ vô mao bần chi tử
4. Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông lồn rụng sạch
5. Ba cô đi cấy thong dong
Một cô đi giữa lồn cong mũi cày
6.  Bà cốt đánh trống long tong
Nhảy lên nhảy xuống con ong đốt lồn
7.  Bà đội cho chí bà cai, bà nào hay đố chữ cũng lồn ngoài váy trong
8. Ba mươi sáu cái nõ nường. 
Cái để đầu giường cái gối đầu tay
9. Ba con đi chợ long nhong
Một con đi giữa bị ong đốt lồn
Một con đi chợ mua cồn
Một con ở lại xoa lồn con kia
10. Ba bà đi chợ đường quai
Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng lồn
Ba bà đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông lồn bán trăm
11. Bịt lồn lá khoai
12. Bố chồng là lông lợn bạch, 
mẹ chồng là đách lợn lang, 
nàng dâu mới về là Hoàng thái hậu
13. Buồi lắm lông mà đòi đóng khố lượt
14. Buồi ơi cha tổ thằng buồi
Chịu nhịn chịu nhục mà chui vào lồn
15. Bướm đồng động cái thì bay 
Bướm nhà chạm cái lăn quay ra giường
16. Cha chết không lo, lo trâu méo lồn
17. Cái buồi thì nuôi cái lồn, cái lồn thì chôn cái buồi
18. Cậy gần hàng nồi đấm buồi vào niêu
19. Cậy gần hàng nồi đút buồi vào lọ
20. Chẳng đẻ chẳng thương, 
chẳng mất tiền cưới chẳng thương cái đồ
21. Chị em rủ nhau tắm đầm
Của em son đỏ chị thâm thế này
Chị thâm là tại anh mày
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm
22. Chim trời bóp cái chết ngay
Chim nhà mà bóp càng ngày càng to
23. Chim khôn chim ngẩng cao đầu
Bướm khôn bướm đậu vào đầu chim khôn
24. Chồng người vượt lạch rẽ ngòi
Chồng em xó bếp đầu bòi chấm gio
25. Chồng chết còn chửa hết tang
Lồn đà ngáp ngáp như mang cá mè
26. Chồng ướt dái vợ sái răng hàm
27. Chớ mó dái ngựa
28. Chơi với làng Bái dái có ngày mất
29. Chơi no bỏ tro vào đồ
30. Chưa giàu đã lấy buồi làm then cửa
31. Chưa nặn Bụt đã nặn buồi.
32. Có phúc thì lồn có lông
Vô phúc thì lại sạch không làu làu
33. Có đồ thì cô có chồng. 
Có chim sáo sậu có lồng sơn son.
34. Có lồn thì giữ, buổi ông Chữ hay đi đêm
35. Có cháo đòi chè, có ghe đòi lồn
36. Coi lồn vợ hơn cái mả cha
37. Con mày con nuôi không bằng con buồi sinh ra
38. Con trai đen dái, con gái đen đầu
39. Con trai sưng dái, con gái sa đì
40. Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ chuột tha mất lồn
41. Con mẹ bán than lồn đen thui thủi, 
con mẹ bán củi lồn trắng như bông,
con mẹ bán hồng lồn vàng như nghệ.
42. Còn nợ còn đòi, hết nợ vỗ đếch vỗ đoi mà về
43. Cô lô cô lốc, một nghìn gánh ốc đổ vào lồn cô
44.  Cơm no cò đói
45. Cơm ăn mỗi bữa một niêu/Tội gì bắt ốc cho rêu bám lồn
46. Cơm nhà, cháo chợ, lồn vợ, nước sông
47. Cùng một nhà lồn bà lồn cháu
48. Của lồn lồn đòi, của buồi buồi quên
49. Dạ vâng trước mặt trật cặc sau lưng
50. Dán bùa lồn mèo
51. Dài như lồn nai xuống dốc
52. Dài như cặc ngựa
53. Dân ngu cu đen, ăn cơm không biết trở đầu đũa
54. Dập cái thè le
55. Dù ai trăm khéo ngàn khôn
Đi tè cũng để cái lồn tô hô
56. Dù cho trăm khéo ngàn khôn
Vấp phải thần lồn xuống dốc không phanh
57. Đàn ông tập trống tập kèn
Đàn bà tập đụ cho quen cái lồn.
58. Đánh đề không lộn ăn lồn trẻ con
59. Đánh đĩ lại gặp năm toi buồi
60. Đầu buồi cuốn giẻ
61. Đẻ con khôn mát lồn rười rượi, đẻ con dại thảm hại cả cái lồn
62. Đẻ con phải biết tính con
Hễ vú gai gạo thì lồn chớp đông
63. Đẹp như tiên cũng một lồn hai vú, xấu như cú cũng hai vú một lồn
64. Đi sau ăn nhau bà đẻ, ăn giẻ chùi trôn, ăn lồn chấm muối
65. Đi biển lâu lồn trâu cũng thích
66. Đỏ như đếch con khỉ
67. Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm
68.  Được cái lồn xỏ bỏ cái lồn chui
69. Gà lấm lưng, chó sưng đồ
70. Gà Lộn Tó vó Vạn Đồn lồn Cổ Am cặc Hành Thiện
71. Gái đâu có gái lạ đời
Chỉ còn có một ông trời không chim
72. Ghét ai cũng chửi mặt lồn
Lên giường ngó thấy lỗ trôn là thèm
73. Già dái non hột
74. Giập dái rái cầu
75. Giữ dao phải giữ lấy chuôi
Giữ chồng phải giữ cái buồi của anh
76. Giữ được đằng trôn, đằng lồn quạ mổ
77. Học thì dốt lồn tốt thì muốn
78. Hong hóng như lồn chực cưới
79. Khổ vì lồn
80. Khít khìn khịt như lồn phò bị lậu
81. Khôn thì ăn cháo ăn chè
Dại thì ăn đếch ăn đác ăn ghe cái lồn
82. Làm đĩ chẳng đắt mắng đếch không thiêng, 
mắng con láng giềng sao mày dữ vía
83. Lạnh (Giá) như lồn ma
84. Lẹo thẹo như mèo cháy lồn
85. Lì lì như đì hàng thịt
86. Lo co đầu gối lo rối lông lồn
87. Lỗ tiền chôn không bằng lồn con heo nái
88. Lồn tao tao vỗ tao chơi
Sao mày lại cứng con buồi mày lên
89. Lồn cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh hàng hương
90. Lồn lá tre, buồi xe điếu
91. Lồn lá vông, buồi tông cán
92. Lồn nào mà chẳng có lông
Buồi nào mà chẳng muốn tông vào lồn
93. Lồn ơi tao khổ vì lồn
Vì mày có lỗ mày chôn đầu buồi
94. Lồn này lồn chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đụ dai đau lồn
95. Lồn em như thể lồn bò
Để cho trẻ nhỏ làm lò nướng khoai
96. Lồn Hà Bắc cặc Hải Hưng
97. Lồn tốt vì lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt vì hài, tai tốt vì hoãn
98. Lồn tù cặc lính
99. Lồn bà bà tưởng lồn ai/Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền
100. Lồn Cổ Am, cam Đồng Dụ, vú Đồ Sơn
101. Lồn lá vông chồng trông chồng chạy, 
lồn lá mít chồng hít chồng ngửi, 
lồn lá tre chồng đe chồng đánh
102. Lồn chằng ghế đá, lồn vá xe hơi
103. Lồn ơi cha tổ cái lồn
Chịu nhục chịu nhịn mà chôn thằng buồi
104. Lồn lá mít, đít lồng bàn
105. Lồn gái Xuân Mai, buồi trai nghĩa vụ
106. Lồn vàng đách ngọc má nu ni
107. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, 
lồn không cạp lồn méo làm ba (tứ phương)
108. Ma bắt hồn thần lồn bắt vía
109. Mẹ để đồ thì mát, con để đồ vừa phát vừa đánh
110. May hơn khôn lớn lồn hơn đẹp
111. Mặt thiếu nhi lồn Từ Hy thái hậu
112. Mặt lồn tâm hồn chó dại
113. Mất tiền thật, phết lồn mo
114. Mô phạm tiên sinh quần dính đít
Bù xu tiểu tử khố cong buồi
115. Mông Phụ dệt vải thâm trôn 
Đồng Sàng buôn bán trắng lồn chai vai
116. Một trăm ông chú chẳng bằng cái hĩm bà cô
117. Một cầu dập dái rái mọi cầu
118. Một trăm con gái không bằng hòn dái con trai
119. Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giải hòa
120. Nghĩ lại thì dái chẳng còn
121. Người dại hở lồn, người khôn đỏ mặt
122. Nếu không hiểu rõ con cu
Đọc vạn quyển sách vẫn ngu như bò
123. Nhăn nhở như lồn lở sơn
124. Như cái đầu buồi
125. Như con cặc
126. Như cái lồn
127. Những cô má đỏ hồng hồng
Nước lồn tát mấy gầu sòng cho vơi
Lại kia mấy ả mi dài
Lông lồn đốt được một vài thúng tro
Những cô lưng thắt tò vò
Lồn kia có thể chở đò sang ngang
128. Nhiều phân tốt lúa, nhiều lụa tốt lồn
129. Nứng cặc thì vặc đến nhà
Lồn còn đau mắt không ra đến ngoài
130. Nước đến trôn lồn mới nhảy
131. Nước nóng đổ lọ bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại dở khôn
Say mê cái lồn bỏ mẹ con tôi
132. Qua sông đấm bòi vào sóng
133. Quan không lành mắng giành không trơn, 
Lồn không lành mắng quanh hàng xóm
134. Ra đường chẳng biết ai nói thế nào, 
về nhà lấy thớt lấy dao băm lồn
135. Ra đường sợ nhất Min khơ
Về nhà sợ nhất vợ sờ vào chim
Khôn hồn thì hãy nằm im
Giả vờ say rượu thì chim mới bền
136. Sáng trăng vằng vặc
Vác cặc đi chơi
Gặp đàn vịt trời
Giương cung anh bắn
Gặp cô yếm thắm
Đội gạo lên chùa
Thò tay bóp vú…
“…Khoan khoan đã chú
Đổ thúng gạo tôi…”
137. Sao bì được phấn với vôi
So lồn con đĩ với môi thợ kèn
138. Sờ lồn béo, đéo lồn gầy
139. Sồn sồn như lồn gặp lá han
140. Sồn sồn như chó cắn lồn
141. Sướng vãi lồn
142. Sướng con cu mù con mắt
143. Tế yêu âm hộ đại
144. Thăm nhau phải đến đêm hôm. 
Rảnh rang nói chuyện cặc lồn mới vui.
145. Thấy đua thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách cũng soi lông lồn
146. Tiền ít mà đòi hít lồn thơm
147. To đầu mà dại nhỏ dái mà khôn
148. Tối như âm hộ
149. Trai thấy lồn lạ như quạ thấy gà con
150. Trai thích chè đặc gái thích cặc dài
151. Trai sờ dái gái sờ lồn
152. Trân trân như lồn trần không váy
153. Trân trân như lồn trần nước sôi
154. Trên trời có ông sao rua
Lồn em tua tủa có thua chi nào
155. Trong lồn gì đẹp bằng le
Ngoài lồn đẹp nhất cái khe cạnh đùi
156. Tự tay bóp dái
157. Uống rượu ngồi dai dái mài xuống đất
158. Vãi cả lồn
159. Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần lồn ám ảnh cũng mê mẩn người
160. Việc thì bỏ cặc lõ thì theo
161. Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ
Đêm nằm nó bảo dí thơ vào lồn
Vợ tôi nửa dại nửa khôn
Đêm nằm nó bảo dí lồn vào thơ
162. Xa như buồi giời
163. Xót lòng mẹ góa con côi, 
kiếm ăn lần hồi lồn lớn bằng mo

164. Xờm xỡm như lồn vỡ đóng đai
165. Yêu nhau hai cái nõ nường 
(còn nữa)